Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp được Luật Sở hữu trí tuệ quy định như thế nào? Đây có thể là thắc mắc mà nhiều bạn đang gặp phải. Theo đó, chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp sẽ được hưởng các quyền theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác, pháp luật đã có quy định những trường hợp giới hạn quyền sở hữu công nghiệp.
Khái quát về giới hạn quyền sở hữu công nghiệp
Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp chỉ thực hiện quyền của mình trong thời hạn và phạm vi bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
Việc thực hiện quyền sở hữu công nghiệp không được xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác và không được vi phạm những quy định khác của pháp luật có liên quan.
Trong trường hợp nhằm đảm bảo mục tiêu an ninh, dân sinh, quốc phòng và các lợi ích khác của xã hội, Nhà nước có quyền hạn chế chủ thể hoặc cấm chủ thể quyền sở hữu công nghiệp thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu phải cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng một hoặc một vài quyền của mình với các điều kiện phù hợp. Ngoài ra, giới hạn quyền đối với sáng chế thuộc bí mật của nhà nước được thực hiện theo quy định Chính phủ.
Các yếu tố giới hạn quyền sở hữu công nghiệp
Quyền của người sử dụng trước đối với kiểu dáng công nghiệp, sáng chế
- Trường hợp trước ngày đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp, sáng chế được công bố mà có người đã sử dụng hoặc là chuẩn bị những điều kiện cần thiết để sử dụng kiểu dáng công nghiệp, sáng chế đồng nhất với kiểu dáng công nghiệp, sáng chế trong đơn đăng ký. Sau khi văn bằng bảo hộ được cấp phép, người đó có quyền tiếp tục sử dụng kiểu dáng công nghiệp, sáng chế trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã được chuẩn bị để sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền cho chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp, sáng chế được bảo hộ.
- Việc thực hiện quyền của người sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp, sáng chế không bị xem là xâm phạm quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp, sáng chế.
- Người có quyền sử dụng trước kiểu dáng công nghiệp, sáng chế không được phép chuyển giao quyền đó cho người khác. Trừ trường hợp chuyển giao kèm theo việc chuyển giao cơ sở kinh doanh, sản xuất nơi sử dụng hoặc chuẩn bị sử dụng kiểu dáng công nghiệp, sáng chế. Người có quyền sử dụng trước không được mở rộng khối lượng, phạm vi sử dụng nếu không được chủ sở hữu phạm vi, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế cho phép.
Quyền sử dụng sáng chế nhân danh Nhà nước
- Bộ và cơ quan ngang Bộ có quyền nhân danh Nhà nước sử dụng hoặc cho phép cá nhân, tổ chức khác sử dụng sáng chế thuộc lĩnh vực quản lý của mình nhằm mục tiêu phi thương mại, công cộng, phục vụ quốc phòng, phòng bệnh, an ninh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân và đáp ứng những nhu cầu cấp thiết khác của xã hội.
- Việc sử dụng mục đích nêu trên không cần có sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế hoặc là người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế dựa theo hợp đồng độc quyền.
- Việc sử dụng sáng chế được quy định nêu trên chỉ được giới hạn trong điều kiện và phạm vi chuyển giao quyền sử dụng. Trừ trường hợp sáng chế được tạo ra thông qua việc sử dụng kinh phí, cơ sở vật chất – kỹ thuật từ ngân sách nhà nước.
Nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí
Chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí có nghĩa vụ phải trả thù lao cho tác giả theo thỏa thuận hoặc được quy định về mức thù lao tối thiểu mà chủ sở hữu sẽ phải trả cho tác giả:
- 10% số tiền làm lợi mà chủ sở hữu có được do sử dụng kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí;
- 15% tổng số tiền chủ sở hữu nhận được trong mỗi lần nhận tiền thanh toán do được chuyển giao quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí.
Lưu ý, trong trường hợp kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí được nhiều tác giả cùng tạo ra. Mức thù lao quy định như trên là mức dành cho tất cả đồng tác giả. Các đồng tác giả tự mình thoả thuận việc phân chia số tiền thù lao được chủ sở hữu chi trả.
Nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu, nhãn hiệu
- Chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ là sản xuất sản phẩm được bảo hộ hoặc sử dụng quy trình được bảo hộ nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh, phòng bệnh, quốc phòng, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc những nhu cầu cấp thiết khác của xã hội.
- Khi có nhu cầu này mà chủ sở hữu sáng chế không có thực hiện nghĩa vụ đó. Thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác mà không cần sự phép của chủ sở hữu sáng chế.
- Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ được sử dụng liên tục nhãn hiệu đó. Trong trường hợp nhãn hiệu không sử dụng liên tục từ 05 năm trở lên thì quyền sở hữu nhãn hiệu sẽ bị chấm dứt hiệu lực.
Nghĩa vụ cho phép sử dụng sáng chế cơ bản nhằm sử dụng sáng chế phụ thuộc
- Sáng chế phụ thuộc là sáng chế được tạo ra dựa trên cơ sở một sáng chế khác (sau đây sẽ gọi là sáng chế cơ bản) và chỉ có thể sử dụng được với điều kiện cần phải sử dụng sáng chế cơ bản.
- Trong trường hợp cần chứng minh được sáng chế phụ thuộc tạo ra bước tiến quan trọng về kỹ thuật so với các sáng chế cơ bản và có ý nghĩa về mặt kinh tế lớn.
- Trong trường hợp chủ sở hữu sáng chế cơ bản không đáp ứng đủ yêu cầu của chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc mà không đưa ra lý do chính đáng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế đó cho chủ sở hữu sáng chế phụ thuộc mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu sáng chế cơ bản.
XEM THÊM: Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp
Trên đây là một số nội dung liên quan đến Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp. Để tránh các rủi ro và hiểu rõ hơn về lĩnh vực này, bạn đọc hãy tìm hiểu những bài viết mà chúng tôi đã đề cập ở trên.