Ngân hàng phải cung cấp thông tin tài khoản khách hàng và khấu trừ thuế theo đề nghị của cơ quan thuế
Ngày 19/10/2020, Chính phủ ban hành Nghị định 126/2020/NĐ-CP (“Nghị định 126”) quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14. Trong đó, Nghị định 126 quy định về trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong việc cung cấp thông tin tài khoản khách hàng và khấu trừ thuế trên tài khoản khách hàng mở tại ngân hàng cho cơ quan thuế.
Nghị định 126 quy định về trách nhiệm của ngân hàng thương mại như sau:
- Cung cấp thông tin tài khoản khách hàng cho cơ quan thuế
Theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của Nghị định 126, Ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp cho cơ quan quản lý thuế các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng gồm: tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản. Việc cung cấp thông tin về tài khoản này được thực hiện lần đầu trong thời gian 90 ngày kể từ ngày 05/12/2020 và việc cập nhật các thông tin về tài khoản được thực hiện hàng tháng trong 10 ngày của tháng kế tiếp.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn phải cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư, số liệu giao dịch theo đề nghị của người đứng đầu cơ quan thuế để phục vụ cho mục đích thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
- Khấu trừ thuế trên tài khoản khách hàng mở tại ngân hàng
Theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Nghị định 126, các ngân hàng phải khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế của nhà cung cấp ở nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân trong nước (sau đây gọi là nhà cung cấp ở nước ngoài) nếu nhà cung cấp ở nước ngoài chưa thực hiện đăng ký, kê khai, nộp thuế. Khi đó, ngân hàng thương mại thực hiện khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật thuế đối với từng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà người mua là cá nhân ở Việt Nam thanh toán cho nhà cung cấp ở nước ngoài. Tên, địa chỉ website của nhà cung cấp ở nước ngoài sẽ được Tổng Cục thuế cung cấp cho ngân hàng thương mại.
Trong trường hợp cá nhân có mua hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp nước ngoài có thanh toán bằng thẻ hoặc các hình thức khác mà ngân hàng thương mại không thể thực hiện khấu trừ, nộp thay thì ngân hàng thương mại có trách nhiệm theo dõi số tiền chuyển cho các nhà cung cấp ở nước ngoài và định kỳ hàng tháng gửi về Tổng cục Thuế.
Dù Nghị định yêu cầu cơ quan thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của pháp luật, tuy vậy, vẫn có sự lo ngại về khả năng tiết lộ thông tin của người nộp thuế cũng như nghĩa vụ bảo mật của ngân hàng.