Trong quá trình làm thủ tục ly hôn, một thực tế thường gặp là dù đã có thỏa thuận rõ ràng về mức trợ cấp nuôi con, không phải cha mẹ nào cũng tuân thủ và thực hiện đúng cam kết này. Pháp luật quy định xử lý trường hợp không cấp dưỡng cho con sau ly hôn như thế nào? Hãy cùng GV Lawyers tìm hiểu trong bài viết này.
I. Không cấp dưỡng cho con sau ly hôn có bị phạt không?
Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Nếu cha/mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Ngoài ra, Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia Đình 2014 cũng có quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con.
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình vẫn tồn tại trong trường hợp không sống chung với con sau khi ly hôn hoặc sống chung nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Điều này có nghĩa là cha mẹ sau khi ly hôn và không sống chung cùng con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thuộc các đối tượng như sau: con chưa thành niên; con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Do đó, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn thuộc về người không trực tiếp nuôi con.
Theo quy định pháp luật, hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn có thể bị phạt tiền từ 5 – 10 triệu đồng theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ, gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe của người được cấp dưỡng, người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 186 của Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi và bổ sung năm 2017.
Theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự, mức hình phạt đối với người phạm tội là bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Hơn nữa, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và còn vi phạm thêm sau khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính, người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không chấp hành bản án theo quy định tại Điều 380 của Bộ luật Hình sự, với mức phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
II. Đối tượng cấp dưỡng là ai?
Căn cứ vào Điều 110 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các đối tượng sau:
1. Con chưa thành niên
Theo Điều 21 của Bộ luật Dân sự năm 2015, người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Trong trường hợp ly hôn khi con chưa đủ 18 tuổi, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ chi trả tiền cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con cho đến khi con trưởng thành.
2. Con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Không có khả năng lao động có thể bao gồm sức khỏe yếu, mất sức lao động, tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự… Tuy nhiên, việc không có khả năng lao động phải kèm theo điều kiện không có tài sản để tự nuôi mình. Trong thực tế, có nhiều trường hợp con không có khả năng lao động nhưng vẫn có tài sản để tự nuôi mình.
Việc định rõ “không có khả năng lao động” và “không có tài sản để tự nuôi mình” hiện chưa có hướng dẫn cụ thể. Thực tế, việc này thường phụ thuộc vào sự đánh giá của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử trong từng trường hợp cụ thể.
III. Mức cấp dưỡng
Theo quy định tại Điều 116 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, mức cấp dưỡng nuôi con trong các vụ án ly hôn được xác định dựa trên thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Pháp luật hiện hành không quy định mức cấp dưỡng cụ thể như 2 triệu, 5 triệu hay 100 triệu/tháng mà tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận, dựa vào điều kiện và thu nhập của người cấp dưỡng. Trong trường hợp không thỏa thuận được, bên liên quan có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thực tế, khi giải quyết các vụ án hôn nhân có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con, các Tòa án thường áp dụng quy định tại Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là:
Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con để làm căn cứ giải quyết.
Để tìm hiểu thêm về các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình, bạn có thể tham khảo các bài viết khác tại website của GV Lawyers. Hoặc bạn cũng có thể liên hệ trực tiếp với GV Lawyers thông qua hotline: +84 (28) 3622 3555.
Xem thêm: