Việc giao những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn cam kết ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp và gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nhận hàng. Khi điều này xảy ra, bồi thường thiệt hại hàng hóa là giải pháp pháp lý nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị thiệt hại. Bài viết này sẽ cung cấp những thông tin chi tiết về quy trình và quy định liên quan đến bồi thường thiệt hại hàng hóa do không đảm bảo chất lượng.
Bồi thường thiệt hại hàng hóa là gì?
Bồi thường thiệt hại hàng hóa được hiểu là nghĩa vụ pháp lý buộc bên gây thiệt hại phải chi trả một khoản tiền hoặc thay thế sản phẩm để khắc phục hậu quả do việc cung cấp hàng hóa không đạt chất lượng gây ra. Các trường hợp phổ biến bao gồm:
- Hàng hóa bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển.
- Giao hàng sai chủng loại, mẫu mã.
- Sản phẩm không đáp ứng đúng cam kết trong hợp đồng.
- Hàng hóa bị hết hạn sử dụng.
Như vậy, để giảm thiểu tranh chấp, việc lập hợp đồng mua bán rõ ràng về chất lượng hàng hóa đóng vai trò quan trọng.
Trường hợp phải bồi thường thiệt hại do hàng hóa không bảo đảm chất lượng gây ra
Theo quy định tại Điều 60 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007, các thiệt hại phải bồi thường do hàng hóa không đảm bảo chất lượng bao gồm:
- Thiệt hại về giá trị hàng hóa: Tài sản bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại.
- Thiệt hại về sức khỏe và tính mạng con người.
- Thiệt hại về lợi ích kinh tế: Bao gồm những lợi ích liên quan đến việc sử dụng và khai thác hàng hóa, tài sản.
- Chi phí hợp lý để khắc phục thiệt hại: Các chi phí ngăn chặn, hạn chế hoặc khắc phục hậu quả.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 59 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 như sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ, kịp thời nếu vi phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Thiệt hại được bồi thường là các thiệt hại nêu trên, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy, mọi thiệt hại do hàng hóa không đảm bảo chất lượng đều phải được bồi thường một cách nhanh chóng và toàn diện, theo đúng quy định pháp luật, trừ các trường hợp được miễn bồi thường tại mục tiếp theo.
Trường hợp người bán hàng không phải bồi thường cho người tiêu dùng
Theo Khoản 2 Điều 62 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007, người bán hàng không phải bồi thường cho người tiêu dùng trong các trường hợp sau:
- Người tiêu dùng sử dụng hàng hóa đã hết hạn sử dụng.
- Hết thời hiệu khiếu nại, khởi kiện.
- Người bán đã thông báo khuyết tật của hàng hóa: Trường hợp người tiêu dùng vẫn mua và sử dụng dù đã được thông báo trước về vấn đề này.
- Khuyết tật hàng hóa do tuân thủ quy định bắt buộc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Trình độ khoa học và công nghệ chưa đủ phát hiện nguy cơ gây mất an toàn của hàng hóa tại thời điểm xảy ra thiệt hại.
- Lỗi thuộc về người tiêu dùng: Thiệt hại phát sinh hoàn toàn do người tiêu dùng hoặc người mua gây ra.
Ngoài ra, Khoản 1 Điều 62 cũng quy định rằng người sản xuất và người nhập khẩu sẽ không phải bồi thường trong một số trường hợp tương tự như:
- Sản phẩm hết hạn sử dụng nhưng vẫn được người tiêu dùng sử dụng.
- Thời hiệu khiếu nại, khởi kiện đã hết.
- Đã thông báo thu hồi sản phẩm trước thời điểm xảy ra thiệt hại.
- Lỗi phát sinh từ người bán hàng hoặc người tiêu dùng.
- Khuyết tật sản phẩm xuất phát từ việc tuân thủ quy định bắt buộc của cơ quan chức năng.
Như vậy, trong các trường hợp như sử dụng hàng hóa đã hết hạn, người bán hoặc nhà sản xuất đã thông báo về khuyết tật từ trước, hoặc lỗi do chính người tiêu dùng, người bán sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường khi hàng hóa gây thiệt hại thuộc về ai?
Theo Điều 61 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa gây ra được quy định như sau:
- Người sản xuất và người nhập khẩu:
Phải bồi thường thiệt hại cho người bán hàng hoặc người tiêu dùng nếu thiệt hại xuất phát từ lỗi của họ trong việc không bảo đảm chất lượng hàng hóa. Tuy nhiên, trường hợp miễn trừ trách nhiệm được quy định tại Mục 2. - Người bán hàng:
Chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người mua hoặc người tiêu dùng nếu thiệt hại phát sinh do lỗi của họ trong việc không bảo đảm chất lượng hàng hóa, trừ các trường hợp được nêu tại Mục 2. - Biện pháp bồi thường thiệt hại:
Việc bồi thường được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên liên quan hoặc dựa trên quyết định của tòa án hoặc trọng tài.
Ngoài ra, theo Điều 63 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007, tổ chức đánh giá sự phù hợp cũng có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp cung cấp kết quả sai như sau:
- Tổ chức đánh giá sự phù hợp cung cấp kết quả sai sẽ phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho tổ chức hoặc cá nhân yêu cầu đánh giá sự phù hợp theo quy định pháp luật dân sự.
- Tổ chức hoặc cá nhân có sản phẩm, hàng hóa được đánh giá sự phù hợp có trách nhiệm chứng minh kết quả sai và lỗi thuộc về tổ chức đánh giá sự phù hợp.
Trong bối cảnh thị trường hàng hóa ngày càng đa dạng và phức tạp, vấn đề chất lượng hàng hóa và bồi thường thiệt hại càng trở nên cấp bách. Những vụ việc hàng hóa kém chất lượng gây thiệt hại ảnh hưởng đến kinh tế và tác động tiêu cực đến sức khỏe và đời sống của người dân.
Qua bài viết tham khảo trên đây có thể thấy việc nâng cao nhận thức về quyền lợi người tiêu dùng và trách nhiệm của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Để biết thêm những thông tin hữu ích liên quan đến chủ đề này hãy liên hệ công ty luật GV Lawyers. Với đội ngũ Luật sư nhiều năm kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực sẽ giúp bạn giải quyết những khó khăn.
Xem thêm: Phí lưu Cont là gì? Các loại phí lưu Cont và những điều cần lưu ý