Bị ép làm doanh nhân

Bị “ép” làm doanh nhân

GV Lawyers xin giới thiệu bài viết của Luật sư Trần Thanh Tùng có tiêu đề: “Bị “ép” làm doanh nhân” được đăng trên Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 18/12/2014, Số 51.2014 (1.253).

***

Người từ chối làm doanh nhân

Tôi có một người bạn là chủ một cơ sở karaoke gia đình, có trên dưới 10 nhân viên. Vừa rồi có đoàn kiểm tra liên ngành đến kiểm tra cơ sở của anh. Không phát hiện sai phạm nào của cơ sở, đoàn kiểm tra phạt anh 500.000 vì thuê hơn 10 lao động không có nội quy lao động. Ngoài ra, cũng vì lý do trên, đoàn kiểm tra còn bắt anh phải chuyển từ hộ kinh doanh cá thể lên công ty. Sáng sớm, anh gọi, giọng có vẻ bức xúc lắm: “Tôi phải lo đủ thứ chuyện mới có tiền trả lương cho nhân viên thế mà họ lại phạt tôi, phạt vì tôi tạo việc làm cho lao động à? Tại sao cứ phải bắt tôi lên công ty trong khi bây giờ tôi đang đóng thuế khoán, chả phải lo sổ sách kế toán gì cho phức tạp. Lên công ty thì được lợi ích gì chứ, tại sao cứ ép tôi phải lên công ty?”. Tôi biết nhân viên thực ra toàn là con cháu trong nhà thôi, không thuê mướn người ngoài vì khó quản lý. Thấy anh bức xúc, tôi nói đùa cho anh đỡ bực mình, thời giờ ai cũng muốn có doanh nghiệp để được thành doanh nhân cho hoành tráng, chỉ riêng anh là cứ nhất định làm chủ hộ kinh doanh tí tẹo. Cúp máy xuống mới thấy sự bức xúc của anh có lý.

Công ty có hẳn là tốt?

Công ty hẳn nhiên là một phát minh to lớn của loài người để kiếm tiền và tích tụ tiền. Phải thừa nhận một điều rằng, công ty có nhiều lợi ích.

Trước nhất, công ty bảo về người chủ thông qua hai lợi thế quan trọng: tính chịu trách nhiệm hữu hạn và tư cách pháp nhân. Thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn anh ta góp hoặc cam kết góp vào công ty, tức là một khi anh đã đã góp đủ vốn đã cam kết vào công ty, không ai được quyền đụng đến tài sản cá nhân – “cái nồi cơm” của vợ con anh. Và công ty là thực thể độc lập, nó có tư cách pháp nhân riêng, nó tạo ra vỏ bọc pháp lý che chắn cho người chủ. Khi làm ăn với công ty, đối tác muốn kiện tụng gì thì kiện công ty, còn người chủ sẽ thoát khỏi những vụ kiện đó.

Tiếp đến là khả năng trường tồn của công ty, công ty độc lập với chủ, nên nếu chủ có qua đời thì công ty vẫn tồn tại và sẽ được chuyển giao cho thế hệ tiếp theo. Ở Nhật Bản, có những công ty hơn 1000 năm tuổi trải qua bao nhiêu thể hệ trong gia đình là vì thế.

Lợi thế không kém phần quan trọng là khả năng chuyển nhượng của công ty. Nếu không muốn kinh doanh nữa, người chủ có thể bán vốn cho người khác và rút lui khỏi công ty. Nếu vẫn muốn giữ công ty, anh ta có thể bán tài sản của công ty như nhà xưởng, đất đai, thương hiệu, máy móc, thậm chí hệ thống phân phối hoặc danh sách khách hàng. . .  cũng có thể bán được.

Cuối cùng công ty có lá chắn thuế – tức là công ty chỉ phải đóng thuế thu nhập trên phần tiền còn lại sau khi lấy doanh thu trừ đi chi phí. Nếu doanh thu nhỏ hơn chi phí (công ty lỗ) thì không phải đóng thuế thu nhập.

Tuy nhiên, cũng như hai mặt của một đồng xu, công ty cũng có nhiều bất lợi (tạm so sánh với hộ kinh doanh cá thể). Tổ chức công ty phức tạp và chi phí duy trì hoạt động của các thiết chế trong công ty cao (phúc lợi cho lãnh đạo, tiền lương cho nhân viên, chi phí duy trì các phòng ban và hàng trăm khoản phải chi khác). Thông thường, các công ty thường phải tuân thủ nhiều quy định và chi phí tuân thủ các quy định đó cũng không nhỏ. Thuế và kế toán cũng là vấn đề nhức đầu, ít nhất là so với thuế khoán áp dụng cho hộ kinh doanh cá thể. Nếu có nhiều thành viên, các thành viên phải san sẻ quyền quản lý doanh nghiệp và không dễ để thống nhất ý kiến giữa các thành viên, nói khác đi, sẽ luôn tồn tại khả năng tranh chấp quyền lợi giữa các thành viên trong công ty.

Một quy định lửng lơ từ LDN 2005

Điều 170 Luật Doanh nghiệp 2005 buộc hộ kinh doanh cá thể sử dụng thường xuyên trên 10 lao động thì PHẢI đăng ký thành lập doanh nghiệp. Bắt buộc như vậy nhưng Luật không hề có mức phạt nào khi hộ kinh doanh cá thể không tự nguyện chuyển sang mô hình doanh nghiệp. Cũng không có quy định về thời hạn buộc phải chuyển từ hộ kinh doanh cá thể sang doanh nghiệp.

Quan trọng hơn, luật cũng không có hướng dẫn thủ tục chuyển đổi từ hộ kinh doanh cá thể sang doanh nghiệp như thế nào. Trong cuộc điện thoại với bạn tôi, khi tôi nói đến nội dung của điều 170 trên, anh bạn tôi đốp lại ngay: “Thế chuyển lên doanh nghiệp thì những giấy phép hiện giờ phải làm lại hết à. Nhà nước có miễn phí tiền xin lại giấy phép này cho tôi không?”. Đứng từ góc độ kinh doanh, tôi phải thừa nhận sự bức xúc của anh bạn là hợp lý. Hiện nay, để điều hành một cơ sở karaoke gia đình như thế, anh phải đi xin hàng chục loại giấy phép và thủ tục khác nhau như giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể, giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy, giấy phép đủ điều kiện về an ninh trật tự, cam kết bảo vệ môi trường, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm, cam kết phòng chống tội phạm, cam kết không để xảy ra tệ nạn xã hội . . . Nếu chuyển thành doanh nghiệp anh bạn tôi sẽ là làm lại toàn bộ giấy phép trên từ đầu (Nhức đầu lắm, tốn một mớ tiền khá đấy ông ạ! – như lời anh bạn tôi).

Quy định này đúng là vô thưởng vô phạt. Có lẽ vì sự lửng lơ đó mà ít doanh nhân nào biết rằng quy định này có từ Luật Doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, tin xấu là quy định này vẫn được giữ lại trong Luật Doanh nghiệp 2014, dù chúng ta, không chắc rằng quy định này sẽ được thực thi như thế nào trong tương lai.

Khi đưa ra quy định này, dường như nhà làm luật còn quên một điều là không phải ai cũng muốn và được quyền thành lập doanh nghiệp. Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 không cho phép cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, các sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng, công an nhân dân, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp Nhà nước. .. thành lập và quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, những người trên có quyền mở cửa hàng dưới danh nghiệp hộ kinh doanh cá thể để làm tăng thu nhập. Nếu bắt những hộ kinh doanh này phải chuyển thành doanh nghiệp (trong khi họ thuộc diện cấm thành lập doanh nghiệp) chẳng khác nào bắt họ đóng cửa hộ kinh doanh cá thể và chặn đường sinh sống của họ.

 

Học được gì từ những thất bại trong quá khứ?

Tâm lý lý tưởng hóa mô hình doanh nghiệp không chỉ có trong Luật Doanh nghiệp. Luật Kinh doanh bất động sản 2006[1] cũng có quy định tương tự khi yêu cầu tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, phải có vốn pháp định và đăng ký kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật.

Dựa theo quy định này, một vài cơ quan nhà nước giải thích rằng cứ cho thuê nhà là kinh doanh bất động sản, bất kể quy mô kinh doanh lớn hay nhỏ. Từ đó, họ hăng hái bắt các hộ gia đình phải lập công ty bất động sản cho đúng luật (!) nếu muốn cho thuê nhà. Tuy nhiên, do bị phản đối, quan điểm này không đứng vững và Luật Kinh doanh bất động sản 2014[2] đã được sửa lại, theo đó, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân  bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên thì không phải lập doanh nghiệp.

Luật Kinh doanh bất động sản 2006 đã một lần thất bại về việc áp đặt mô hình doanh nghiệp trong kinh doanh bất động sản. Xa hơn một chút, lịch sử cũng cho thấy mô hình hợp tác xã cũng không phải hoàn hảo khi áp dụng đại trà.

 

Công ty – Công cụ cho doanh nhân

Công ty, suy cho cùng, là một công cụ luật tạo ra để doanh nhân sử dụng. Dưới góc nhìn này, công ty cũng ngang hàng như hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân hoặc các công cụ kinh doanh khác. Công cụ nào cũng có cái hay và cái dở của nó. Nhiệm vụ của nhà làm luật đưa ra các công cụ đó cho doanh nhân chọn lựa, còn chọn cái nào phụ thuộc vào doanh nhân, dựa theo sở thích hoặc nhu cầu của họ chứ không phải mong muốn của nhà làm luật. Việc buộc hộ kinh doanh cá thể sử dụng trên 10 lao động phải chuyển thành doanh nghiệp hạn chế quyền chọn lựa công cụ kinh doanh của doanh nhân. Ép buộc khó mà thành công.

Thiết nghĩ, khi thực hiện quy định về chuyển đổi nêu trên, cần ban hành các hướng dẫn rõ ràng; đồng thời, khi thực thi cũng đòi hỏi phải mềm dẻo và không ép buộc. Ngoài ra, từ đây cho đến khi LDN 2014 có hiệu lực vẫn còn một khoảng thời gian đáng kể để các nhà làm luật xem xét và đánh giá tính phù hợp và thực tiễn của quy định này.

[1] Điều 8 Luật Kinh doanh bất động sản 2006

[2]  Điều 10 Luật Kinh doanh bất động sản 2014

5/5 - (500 votes)
Scroll to Top